Quản lý chất lượng sầu riêng để giữ thị trường xuất khẩu
Với những nỗ lực chứng minh chất lượng sầu riêng Việt Nam đảm bảo theo yêu cầu của các nhà nhập khẩu, Trung Quốc đã chấp nhận sầu riêng Việt Nam có thể trở lại thị trường này bằng việc cấp thêm mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói cho các địa phương sản xuất và xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam. Trước cơ hội này, các địa phương sản xuất sầu riêng tăng cường kiểm soát, kiểm tra chất lượng đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng xuất khẩu.
Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, sau khi Trung Quốc cấp thêm 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói cho ngành hàng sầu riêng Việt Nam, cả nước đang có 1.396 mã số vùng trồng và 188 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng được xuất khẩu sang Trung Quốc. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nỗ lực mở rộng quy mô xuất khẩu chính ngạch sản phẩm trồng riêng sang thị trường Trung Quốc.
Để có được kết quả này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã theo sát sự phát triển ngành hàng sầu riêng, để từ đó có những chỉ đạo hoạt động cho Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cùng các đơn vị liên quan có giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện các yêu cầu về tiêu chuẩn của thị trường Trung Quốc, đặc biệt là yêu cầu về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật và hệ thống truy xuất nguồn gốc với sản phẩm sầu riêng.
Ngành nông nghiệp đã có nhiều khuyến cáo nông dân, các hợp tác xã, doanh nghiệp thu mua xuất khẩu phải tuân thủ nghiêm các quy định của nhà nhập khẩu, tuân thủ kỹ thuật sản xuất sầu riêng, không để tồn dư chất bảo quản, hóa chất trong trái sầu riêng khi xuất bán ra thị trường. Đến tháng 6 này, sau một thời gian kiểm tra, kiểm soát của ngành chức năng nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã đảm bảo chất lượng hàng hóa, không vi phạm quy định của nhà nhập khẩu.
Ngành hàng sầu riêng Việt Nam tập trung chủ yếu tại khu vực Tây Nguyên và phía Nam. Tại các địa phương sản xuất sầu riêng xuất khẩu, cả lãnh đạo địa phương lẫn người dân cũng đã nỗ lực hết sức để quản lý chất lượng theo yêu cầu của thị trường. Ông Đoàn Văn Đảnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Bến Tre cho biết, đến nay, trên địa bàn tỉnh chưa phát hiện trường hợp vùng sản xuất, lô hàng xuất khẩu nào bị nhiễm chất vàng ô, cadimi hoặc chất cấm khác. Tuy nhiên, thông qua các cơ quan chuyên môn và hệ thống khuyến nông cơ sở sẽ hướng dẫn người sản xuất, doanh nghiệp để sản xuất an toàn, tránh nguy cơ bị nhiễm kim loại nặng và những chất cấm khác. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp tỉnh cũng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát vùng sản xuất, nhà đóng gói để kịp thời phát hiện, xử lý.
Hiện nay, siết chặt quản lý trái sầu riêng vẫn là vấn đề mấu chốt để thúc đẩy xuất khẩu ổn định và bền vững
Thực tế cho thấy, hiện nay, siết chặt quản lý trái sầu riêng vẫn là vấn đề mấu chốt để thúc đẩy xuất khẩu ổn định và bền vững. Các địa phương sản xuất sầu riêng của khu vực phía Nam cũng đã tổ chức kiểm tra các khâu từ tiếp nhận hồ sơ, đến kiểm tra thực tế các vùng nguyên liệu sầu riêng xin cấp mã số vùng trồng và giám sát các mã số vùng trồng. Hoạt động xuất khẩu sầu riêng mang về nguồn kim ngạch cho cả nước, nên việc quản lý cũng được thống nhất, đồng bộ theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đơn vị giám sát trực tiếp là Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật nên các địa phương đều tuân thủ chặt chẽ.
Khu vực Tiền Giang là “vựa” sầu riêng lớn của các tỉnh phía Nam, với hơn 24.500 ha và sản lượng 458.000 tấn/năm. Theo đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Tiền Giang, để thực hiện quản lý chất lượng sầu riêng phục vụ cho xuất khẩu, Tiền Giang đã triển khai 6 mô hình kiểm soát cadimi tại các vùng trồng sầu riêng ở Cái Bè và Cai Lậy, cùng các doanh nghiệp như Công ty Tiến Nông, Thiên Sinh, Phước Hưng và Ngôi Sao (4 mô hình), 2 mô hình còn lại là của các hợp tác xã.
Các mô hình này tập trung cải tạo đất và áp dụng kỹ thuật an toàn, bao gồm: Áp dụng Quy trình kỹ thuật thâm canh tổng hợp cây sầu riêng (gọi tắt là Quy trình 116), sử dụng phân bón không chứa cadimi hoặc hàm lượng cực thấp, kết hợp Quy trình 116 với bổ sung Biochaz (than hoạt tính) để hấp thụ cadimi, kết hợp Quy trình 116 với trồng cây hấp thụ cadmium (bạc hà, kèo nèo, cỏ mần trầu, cải xoăn) phù hợp địa phương, kết hợp Quy trình 116 với chế phẩm vi sinh và Biochaz để tối ưu hóa kiểm soát cadimi.
Những mô hình quản lý chất lượng sầu riêng xuất khẩu cũng mang lại kết quả tốt, cung ứng nguồn sầu riêng tươi cho thị trường Trung Quốc. Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam nhấn mạnh, quá trình canh tác chạy theo năng suất, thiếu kiểm soát đầu vào đã vô tình đưa chất độc vào chuỗi sản xuất, cũng là lời cảnh tỉnh đối sự phát triển bền vững của ngành hàng sầu riêng về sau.
Chính vì vậy, ông Đặng Phúc Nguyên kiến nghị cần thiết lập hệ thống giám sát chất lượng từ gốc, tăng cường khâu kiểm nghiệm tại cơ sở sản xuất sầu riêng bằng cách xây dựng các chương trình giám sát an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật ngay tại vườn trồng và cơ sở đóng gói sầu riêng bằng cách mở rộng danh sách và nâng cao năng lực cho nhiều phòng xét nghiệm đủ chuẩn phủ kín các vùng trồng sầu riêng.
Việc truy xuất nguồn gốc sẽ chính xác, rõ ràng khi các cơ quan chức năng Việt Nam hay Trung Quốc cần truy xuất về mã số, tồn dư chất cấm… của sầu riêng xuất khẩu. Về lâu dài, ngành hàng sầu riêng cần quy hoạch vùng trồng tập trung và bền vững; siết chặt quản lý và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói; kiểm soát chặt chẽ vật tư đầu vào; thay đổi quy trình canh tác; xây dựng thương hiệu quốc gia…
Nguồn: VTV